Nhìn lại 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Xã Gia Điền đón chuẩn nông thôn mới
Cơ cấu ngành Nông nghiệp chuyển hướng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả. Năm 2017, giá trị tăng thêm ngành nông, lâm nghiệp đạt: 853.300 triệu đồng; thu nhập bình quân trên đơn vị diện tích đạt 89 triệu đồng/ha; tăng 3,2 lần so với năm 2008 (năm 2008: 27,7 triệu đồng/ha); thu nhập của người dân tăng 1,52 lần so với năm 2008, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của huyện. Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2017 đạt: 45.473 tấn, tăng 10. 444 tấn so với năm 2008; trong đó: Tổng diện tích cây lúa: 7.400 ha, bằng 117% so với năm 2008; năng suất lúa đạt 55 tạ/ha, bằng 116,8% so với năm 2018; sản lượng lúa đạt 40.145 tấn, bằng 136,6% so với năm 2008. Tổng diện tích ngô năm 2017 đạt 1.134 ha, bằng 70,9% so với năm 2008; năng suất đạt 47 tạ/ha, bằng 119% so với năm 2008; sản lượng đạt 5328. tấn, bằng 94,4% so với năm 2008. Diện tích rau đạt trên 1.500 ha, năng suất bình quân đạt 145 tạ/ha, sản lượng đạt: 21.750 tấn, tăng 10.300 tấn so với năm 2008, từng bước hình thành các vùng nông nghiệp cận đô thị; quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn tập trung với tổng diện tích 100 ha tại các xã: Văn Lang, Mai Tùng, Xuân Áng; diện tích còn lại được sản xuất theo hướng an toàn, đảm bảo chất lượng; xây dựng cửa hàng chuỗi thực phẩm an toàn tại trung tâm huyện, giúp người tiêu dùng yên tâm khi sử dụng sản phẩm. diện tích trồng rau an toàn tăng 45% so với năm 2008.
Giá trị tăng thêm bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2017 đạt 24,5 triệu đồng/người/năm (tăng 17,6 triệu đồng/người/năm so với năm 2008), đời sống của người dân khu vực nông thôn ngày càng được cải thiện. Đến nay, trên địa bàn huyện có 39 Hợp tác xã, 15 tổ hợp tác, 66 trang trại (tăng 35 HTX so với năm 2008), đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tạo vùng sản xuất tập trung, là tiền đề cho công nghiệp chế biến nông, lâm sản phát triển, tạo động lực thúc đẩy kinh tế hộ gia đình. Các loại hình dịch vụ vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh, hiệu quả.
Toàn huyện có 11 làng nghề, tăng 6 làng nghề so năm 2008, hàng năm giải quyết việc làm cho trên 800 lao động nông thôn, với mức thu nhập 4-5 triệu đồng/người/tháng, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn sang làm tiểu thủ công nghiệp, tăng thu nhập cho lao động nông thôn.
Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM, đã góp phần đưa kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội ở nông thôn phát triển khá, từng bước đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống của người dân. Đến hết năm 2017, toàn huyện có 4 xã được công nhận đạt chuẩn NTM. Các thiết chế văn hóa ở nông thôn được củng cố, nâng cao mức hưởng thụ về văn hóa cho người dân. Hệ thống chính trị ở nông thôn hoạt động ngày càng hiệu quả, an ninh chính trị, TTATXH được giữ vững.
Sau 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW của Hội nghị Ban chấp hành hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khoá X “về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” đã tạo nên sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức cũng như trách nhiệm của các cấp, các ngành đối với sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn luôn được quan tâm thực hiện; đến hết năm 2017, tỷ lệ giao thông nông thôn được kiên cố hóa đạt 60,7%; trong đó: 100% các xã, thị trấn có đường từ trung tâm xã đến huyện được nhựa hóa hoặc bê tông hóa; 100% đường trục thôn được cứng hóa, đảm bảo ô tô đi lại thuận tiện quanh năm (tăng 12 xã so năm 2008); 27 xã có hệ thống đường trục nội đồng đảm bảo vận chuyển hàng hóa thuận tiện quanh năm. Hệ thống thủy lợi được xây dựng và nâng cấp, cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất của nhân dân; 27 xã có tỷ lệ diện tích đất sản xuất nông nghiệp được tưới tiêu chủ động đạt từ 80% trở lên. Toàn huyện đạt chuẩn về hệ thống điện; 100% hộ được sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ điện lưới quốc gia; 6 xã không còn nhà tạm, dột nát; 18 xã có tỷ lệ hộ có nhà ở đạt tiêu chuẩn theo quy định từ 75% trở lên; 100% số xã có chợ nông thôn hoặc nơi mua bán, trao đổi hàng hóa đạt chuẩn theo quy định. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo giảm dần hàng năm: Tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2017 còn 11,52 % (giảm 7,18 % so với năm 2008), đời sống nhân dân nông thôn được nâng lên từng bước. Công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ngày càng nâng cao về chất lượng, cở sở vật chất đảm bảo cho việc khám chữa bệnh của nhân dân. Tập trung nguồn lực xây dựng xã đạt bộ tiêu chí quốc gia về y tế giai đoạn 2012- 2020 theo kế hoạch. Đến hết năm 2017, có 17/33 xã, thị trấn đạt chuẩn Quốc gia về y tế xã. Tỷ lệ người dân tham gia Bảo hiểm y tế đạt 84,36%, tăng 31,3% so với năm 2008; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng: 13,5%, giảm 3% so với năm 2008. Công tác đảm bảo ATVSTP, phòng chống dịch bệnh nguy hiểm trên người được triển khai đồng bộ; ý thức người dân trong công tác phòng chống dịch, bệnh; vệ sinh ATTP được nâng lên rõ rệt. Công tác GD & ĐT được đầu tư nâng cấp, cùng với phương châm xã hội hóa giáo dục. Đến nay, toàn huyện có 52/92 trường học đạt chuẩn quốc gia đạt 56,5%. Thực hiện tốt công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ: 33/33 xã, thị trấn được công nhận đạt chuẩn phổ cập GDMN cho trẻ 5 tuổi và đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3. Tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đạt 100%; tỷ lệ học sinh lớp 9 tốt nghiệp THCS đạt trên 99%; tổng số đối tượng từ 15-18 tuổi có bằng tốt nghiệp THCS đạt trên 95%. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào chương trình giảng dạy đã được chỉ đạo tích cực, 100% các trường đã nối mạng internet, 19 trường có phòng máy tính để phục vụ dạy và học môn tin học.
Công tác giải quyết việc làm cho lao động nông thôn bước đã có chuyển biến tích cực; đã có trên 10.000 lao động được tư vấn giải quyết việc làm; sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ đã tạo thêm việc làm mới cho lao động nông thôn. Các chương trình tín dụng ưu đãi giải quyết việc làm đã phát huy hiệu quả, với gần 2.000 lượt khách hàng vay vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho trên 1.000 lao động nông thôn. Số người xuất khẩu lao động hàng năm: 250 người; tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên đạt trên 90%.
Một số công trình cấp nước sạch sinh hoạt nông thôn được đầu tư xây mới, nâng cấp, góp phần nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, như hệ thống trạm bơm nước sạch tại các xã: Vụ Cầu, Vĩnh Chân, Văn Lang, Đan Thượng, Hiền Lương, Thị Trấn Hạ Hòa, Minh Hạc,..., công trình cấp nước Đập Ngòi Lao và hệ thống đường ống dẫn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, cấp nước sinh hoạt cho 6 xã Văn Lang, Vô Tranh, Bằng Giã, Minh Côi, Chuế Lưu..., tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh đạt 94% (tăng 16 % so với năm 2008).
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình thực hiện Nghị quyết trên địa bàn huyện vẫn còn có những hạn chế: chất lượng tăng trưởng ngành nông nghiệp chưa cao, thiếu bền vững, khả năng cạnh tranh của nhiều loại nông sản còn thấp; các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn chậm đổi mới, quy mô sản xuất nhỏ, chưa có sự liên kết; Việc huy động nguồn lực cho Chương trình NTM còn nhiều khó khăn, ngân sách đầu tư của nhà nước còn thấp so với yêu cầu, vốn huy động trong nhân dân còn hạn chế; số lao động đi xuất khẩu lao động còn ít, hiệu quả mang lại chưa cao.
Nhìn lại sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về “nông nghiệp, nông dân, nông thôn” đã tạo sự chuyển biễn rõ rệt nhận thức cũng như trách nhiệm của các cấp, các ngành đối với sự nghiệp phát triển nông nghiệp nông thôn. Ngành nông nghiệp huyện phát triển tương đối toàn diện và tăng trưởng khá, bảo đảm mục tiêu phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích canh tác nông, lâm, thủy sản tăng mạnh. Cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực. Cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi chất lượng cao từng bước tạo đột phá về năng suất, sản lượng và giá trị sản phẩm. Các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả được nhân rộng, sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm được nhiều địa phương và người dân quan tâm, bước đầu hình thành vùng sản xuất tập trung quy mô lớn, hiệu quả cao. Đời sống vật chất và tinh thân của nhân dân được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh, bộ mặt nông thôn mới được hình thành, vị thế của người dân ngày càng được nâng cao. Nét đẹp truyền thống văn hóa nông thôn được giữ gìn và phát triển; chương trình xây dựng nông thôn mới đã và đang đạt được kết quả tích cực; hệ thống chính trị ở cơ sở được tăng cường và hoạt động hiệu quả; dân chủ ở cơ sở được phát huy; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới theo hướng văn minh, hiện đại.
Tiến Tu