Nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp và phát triển bền vững giai đoạn 2016 - 2020
Quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết đã có sự đổi mới và chuyển biến tích cực trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành: chuyển từ chỉ đạo hành chính sang chỉ đạo gắn với thực tế theo từng lĩnh vực cụ thể; việc phân công, phân nhiệm đối với các đồng chí cấp ủy viên và các cơ quan, đơn vị được quy định rõ ràng. Công tác huy động nguồn lực và ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ để triển khai thực hiện các chương trình được Huyện ủy và UBND huyện quan tâm. Nhận thức của cán bộ và nhân dân trong huyện về nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp đã được hình thành như: Đưa các giống lúa thuần mới có năng suất, chất lượng cao vào thay thế các giống lúa có năng suất, chất lượng thấp; tăng tỷ lệ lúa thuần, giảm tỷ lệ lúa lai. Hệ thống hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp: thuỷ lợi, giao thông, điện... được quan tâm đầu tư. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật được ứng dụng, góp phần nâng cao năng suất, sản lượng cây trồng vật nuôi. Một số chương trình kinh tế nông nghiệp trọng điểm được chỉ đạo thực hiện có hiệu quả: chương trình sản xuất lương thực, phát triển cây chè, thuỷ sản, cây lâm nghiệp. Chất lượng, hiệu quả sản xuất được nâng lên; giá trị sản phẩm bình quân trên 1 ha đất sản xuất nông nghiệp đạt 74 triệu đồng/năm. Sản lượng trồng trọt, chăn nuôi đều tăng so với năm 2010; một số sản phẩm chủ yếu có khối lượng lớn: lương thực có hạt 43.840 tấn, tăng 0,3%; chè: 19.000 tấn, tăng 26,7%; chăn nuôi: tổng đàn trâu: 6.680 con, đàn bò: 4.600 con, đàn lợn trên: 110.000 con, đàn gia cầm 1.009.000 con; thuỷ sản: 7.012 tấn; lâm nghiệp: khai thác gỗ, lâm sản: 85.000 m3. Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp có sự chuyển dịch tích cực, tăng tỷ trọng chăn nuôi, thuỷ sản.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai thực hiện Nghị quyết vẫn còn những tồn tại, hạn chế: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền từ huyện đến cơ sở còn chưa đồng bộ và thiếu quyết liệt. Chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền đạt được còn hạn chế, chưa sâu rộng; tư duy về sản xuất nông nghiệp chuyển biến chưa tích cực; nông dân chưa mạnh dạn đầu tư, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất, chưa chủ động tìm kiếm thị trường để tiêu thụ nông sản làm ra. Tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, quảng canh vẫn còn khá phổ biến. Chưa tạo ra được những sản phẩm có thương hiệu, có khối lượng lớn và có khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Giai đoạn năm 2016-2020 Hạ Hòa tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền từ huyện đến cơ sở; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn toàn diện, bền vững trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế của từng vùng, từng địa phương. Nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng giá trị và khả năng cạnh tranh thông qua liên kết mở rộng quy mô sản xuất; đẩy mạnh áp dụng KHKT để tăng năng suất, chất lượng các sản phẩm nông nghiệp. Xây dựng phát triển nền nông nghiệp hiện đại, đẩy mạnh công nghiệp chế biến. Đẩy mạnh liên kết sản xuất giữa người dân và doanh nghiệp thông qua các cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư phù hợp với tiềm năng, lợi thế địa phương để thu hút vốn đầu tư xã hội cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng ngành trồng trọt. Nâng cao năng lực, trình độ, thu nhập, cải thiện mức sống của người dân nông thôn; đảm bảo an ninh lương thực, giảm tỷ lệ hộ nghèo. Quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, nâng cao năng lực quản lý rủi ro, chủ động phòng chống thiên tai đảm bảo an toàn, phát triển sản xuất bền vững.
Đưa cơ giới vào sản xuất nông nghiệp
|
Phấn đấu đến năm 2020: Giá trị tăng thêm ngành nông, lâm nghiệp tăng bình quân 4,5-5% /năm, trong đó: giá trị chăn nuôi, thuỷ sản: tăng 8-10%/năm; trồng trọt: tăng từ 2 đến 3%/năm. Cơ cấu giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế chung của huyện đến năm 2020 đạt 44%; cơ cấu nội bộ ngành: trồng trọt: 35,2%; chăn nuôi - thủy sản: 51,8%; dịch vụ 13%. Giá trị sản phẩm bình quân trên 1 ha đất sản xuất nông nghiệp phấn đấu đạt trên 90 triệu đồng/ha/năm. Ổn định diện tích cấy lúa 7.400 ha, năng suất đạt 54 tạ/ha trở lên; Diện tích cây ngô 1.000 ha, năng suất đạt 42 tạ/ha; sản lượng cây lương thực có hạt đạt trên 41.000 tấn/năm. Phấn đấu giá trị tăng thêm bình quân (giá thực tế) năm 2015 đã đạt 18,8 triệu đồng /người/năm, lên 21 triệu đồng/người/năm 2016, đến năm 2020 đạt 28,5 triệu đồng/người/năm. Phát triển bền vững về nông nghiệp, đồng thời bảo đảm an ninh lương thực trên địa bàn, góp phần xóa đói, giảm nghèo nhanh, tạo động lực đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới sớm về đích theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIII đã đề ra.
Tiến Tu